Thứ Ba, 15 tháng 7, 2014
Đức Tin Vượt Thắng Tất Cả
Niềm tin giúp ta vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống. Niềm tin đêm lại cho ta hạnh phúc đời đời.
Lời Chúa:
Mt 11,20-24
20 Khi ấy, Chúa Giêsu quở trách các thành đã chứng kiến nhiều phép lạ Người làm mà không chịu sám hối: 21 "Hỡi Corozain, khốn cho ngươi! Hỡi Bethsaiđa, khốn cho ngươi! Vì nếu đã xảy ra tại Tyrô và Siđon các phép lạ diễn ra nơi các ngươi, thì họ đã mặc áo nhặm, rắc tro mà ăn năn hối cải từ lâu rồi. 22 Nên Ta bảo các ngươi: Trong ngày phán xét, Tyrô và Siđon sẽ được xét xử khoan dung hơn các ngươi.
23 "Còn ngươi, hỡi Capharnaum, chớ thì ngươi nhắc mình lên tận trời sao? Ngươi sẽ phải rơi xuống địa ngục, vì nếu các phép lạ diễn ra giữa ngươi mà xảy ra tại Sôđôma, thì thành ấy đã tồn tại cho đến ngày nay. 24 Vậy Ta bảo thật các ngươi: Trong ngày phán xét, Sôđôma sẽ được xét xử khoan dung hơn ngươi".
HÃY CHO ĐI
"Dù có thế nào, tôi không bao giờ để mất đồng 1 đô là này". Đó là lời của tràng thanh niên trong you tube trên. Cuối cùng, với tình thương bà cụ đói ăn, anh đã cho đi đồng tiền quý báu nhất của mình, và đã nhận được một công việc anh chưa bao giờ dám nghĩ tới. Phải chăng anh ta đã và đang thực hiên lời Chúa dạy trong bài Tin mừng hôm nay. Còn ban thì sao?
Mt 10,40-42
40 Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy, và kẻ nào đón tiếp Thầy, là đón tiếp Đấng đã sai Thầy. 41 Kẻ nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần thưởng của tiên tri; 42 và kẻ nào đón tiếp người công chính với danh nghĩa người công chính, thì sẽ lãnh phần thưởng của người công chính. Kẻ nào cho một trong những người bé mọn này uống chỉ một bát nước lã mà thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì quả thật, Thầy nói với các con: người ấy không mất phần thưởng đâu".
MẠNG SỐNG TRỌNG HƠN CỦA ĂN
CHÚA
NHẬT VIII TN A
(Is 49, 14-15; 1Cr 4,
1-5; Mt 6, 24-34)
Phêrô Trần Văn Hương
MẠNG SỐNG TRỌNG HƠN CỦA
ĂN
THÂN THỂ TRỌNG HƠN ÁO MẶC
Kính thưa cộng đoàn,
Gần đây tôi có tới thăm một gia đình, ông bà
có 3 người con, hai trai một gái. Ông bà kể: Giá như thằng út nhà con được 1/10
anh chị nó thì con thật hạnh phúc, đằng
này nó mải chơi, không chịu học hành, giao du với bạn bè và dính vào tệ nạn xã
hội, và bây giờ đang ở tù trên Yên Bái. Ông bà rất đau khổ, buồn chán và gần
như mất đi nghị lực sống vì đứa con út này. Ông bà đã nhiều lần muốn từ mặt và
coi nó như không phải là con của mình, nhưng không sao bỏ được, hàng đêm vẫn
khóc thầm thương con, và một vài tháng, hai ông bà 60 tuổi vẫn bắt xe lên thăm
con.
Làm sao có thể bỏ được đưa con mình
đã mang nặng đẻ đau đây, dù tội lỗi, dù gây đau khổ cho ông bà, ông bà có chán
ghét, tức giận, anh ta vẫn là đứa con do ông bà sinh ra, đó là tấm lòng người mẹ,
người cha luôn đắm đuối vì con.
Hay gần đây, trên trang mạng xã hội
cũng đưa hình ảnh một bà mẹ 70 tuổi, cõng đưa con trai tàn tật trên lưng, đi khắp
các ngõ phố để xin ăn. Hình ảnh đó gây cảm xúc mạnh cho cộng động dân mạng. Bà
cụ không quản khó khăn, lưng đã còng nhưng vì con, bà vẫn mang đưa con trên
lưng để tìm của nuôi sống con bà. Một tình yêu của người mẹ thật bao la, không
sao kể được.
Vâng, lời tâm sự của bà mẹ và hình ảnh
người con trai tàn tật năm trên lưng còng bà mẹ 70 làm chúng ta liên tưởng tới lời
Chúa nói với chúng ta hôm nay trong bài đọc I, trích sách ngôn sữ Isaia: “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của
mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa,
thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ” (Is 49,15).
Đúng như vậy, không có tình yêu nào
bao la và bền vững như tình mẹ, tình cha, và vượt lên trên tình mẹ, tình cha là
tình yêu Thiên Chúa: Cho dù cha mẹ có bỏ
con đi nữa, thì hãy còn có Thiên Chúa đón nhận con. Một tình yêu bao là và
bền vững, làm cho chúng ta xác tín vào tình yêu Thiên Chúa yêu thương ta vô bờ
bến. Tình yêu đó được Chúa nhắc tới trong bài Tin mừng hôm nay: Đừng lo gì đến cái ăn, cái mặc, cũng đừng lo
đến mạng sống và tuổi thọ. Chỉ một điều duy nhất phải lo mà thôi là hãy tìm kiếm
Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài.
Ngay hôm nay, chúng ta quá lo lắng về
những nhu cầu vật chất khiến chúng ta quên mất Chúa và sống ngoài sự phó thác
vào Chúa. Quan niệm “có thực mới vực được
đạo” là một quan niệm sai đã ăn sâu vào trong tiềm thức của chúng ta. Nếu
Chúa không quan phòng cho mưa nắng thuận hòa, cho ta sức khỏe và điều kiện thuận
lợi, thì hỏi chăng chúng ta lấy đâu hay kiếm đâu ra của cải để phục vụ cho cuộc
sống.
Chúng ta vì vật chất mà đã bỏ quá
nhiều thời gian cho việc tìm kiếm của cải. Chỉ một tiếng đồng hồ trong ngày
Chúa Nhật, chỉ 10 phút vào các buổi tối, chúng ta cùng gia đình xum họp đọc
kinh tạ ơn Chúa, chúng ta cho rằng mất thời gian, vô bổ, vô ích. Chúng ta quá
coi thường ơn Chúa ban, và hầu như không hề nhận ra ơn Chúa vẫn ban cho chúng
ta hằng ngày, dù chúng ta đang bỏ Chúa, không nghĩ, không nhớ gì đến Chúa,
nhưng Chúa không hề bỏ rơi ta, vẫn luôn chăm sóc cho ta, giữ gìn ta.
Chúng ta không hề tìm kiếm thánh ý
Thiên Chúa hướng dẫn ta trong đời sống, trong công việc. Bởi thế tệ nan tham
nhũng, làm ăn phi pháp ngày càng lan tràn và nó như trở thành điều rất bình thường
trong cuộc sống của chúng ta.
Lời Chúa trong bài Tin mừng hôm nay
đảm bảo cho chúng ta chắc chắn có một cuộc sống đầy đủ, bình an, hạnh phúc như
lời kinh Lạy Cha chúng ta vẫn hằng cầu xin: “Xin cho chúng con lương thực hàng ngày dùng đủ”. Có được như vậy
chúng ta hãy sống và làm theo lời Chúa: “Trước
hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những
thứ kia, Người sẽ thêm cho. Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ
để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6, 33-34).
Chúa khẳng định chắc chắn rằng: “Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt,
không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại
chẳng quý giá hơn chúng sao? Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời
mình thêm được dù chỉ một gang tay?” (Mt 6, 26-27). “Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học:
chúng không làm lụng, không kéo sợi; thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả
vua Sa-lô-môn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy”
(Mt 6, 28-29).
“Anh em
đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó,
dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những
thứ đó” (Mt 6, 31-32).
Kinh thưa cộng đoàn,
Cuộc sống chúng ta còn quá vất vả,
lo lắng cơm áo gạo tiền, đau khổ, mệt mọi vì chúng ta chưa tin và chưa phó thác
hoàn toàn vào sự quan phòng của Chúa. Bởi thế, nhân cơ hội trong năm gia đình
này, chúng ta hãy làm theo lời mời gọi của Giáo hội là sống, tin và làm theo lời
Chúa. Để làm được như thế, chúng ta hãy cùng nhau dựa vào lời Chúa hôm nay để
xét lại đời sống chúng ta:
“Anh
em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (Mt 6,24). Cuộc
sống chúng ta hôm nay, ai đang lãnh đạo, ai đang làm chủ. Phải chăng là nhu cầu
cuộc sống vật chất quá lơn mà chúng ta đầu tư hết thời gian cho việc kiếm tiền.
Như thế, chúng ta đang tôn thờ vật chất mà không biết Chúa mới là Gia Nghiệp đời
đời của chúng ta. Hãy xác tin và đổi mới cuộc đời, vì tiền tài không mang lại hạnh
phúc vĩnh viễn. Chỉ nơi Chúa chúng ta mới tìm được sự bình an, hạnh phúc và niềm
vui hoan lạc đời đời.
“Đừng
lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng
sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao?” (Mt
6,25). Vì cơm áo gạo tiện, chúng ta đang bị lôi kéo và đầu tư hết thời gian vào
việc kiếm tìm của cải. Vì quá bám víu vào của cải mà con người hôm nay nghèo vẫn
hoàn nghèo, bởi không sống theo lời Chúa dạy; biết chia cơm sẻ áo và giúp đỡ nhau. Đồng thời phải biết tín thác vào Chúa Quan
Phòng, vì Chúa sẽ lo cho những ai biết tìm kiếm Nước Chúa trước hết. Hãy đến với
Chúa trong giờ kinh gia đình, trong thánh lễ, chúng ta sẽ được Chúa dạy và hướng
dẫn chúng ta có một cuộc sống thật bình an, thư thái và hạnh phúc.
“Ngày
mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6,34). Kinh lạy
Cha chúng ta đọc hàng ngày, xin Chúa ban cho lương thực hàng ngày dùng đủ. Tin
thác vào tình thương và tin vào Chúa biết chúng ta cần gì, xin gì. Chắc chắn
Ngài sẽ ban. Bổn phận chúng ta hãy lo chu toàn công việc hàng ngày của mình. Lo
cho mình và con cái đến với Chúa, được nghe Lời Chúa, được nói chuyện với Chúa
hằng ngày, chắc chắn chúng ta sẽ không bao giờ phải khổ cực, lao đao kiếm tìm của
cải, cơm áo gạo tiền.
Hãy bắt đầu từ hôm nay, để ngày mai
chúng ta sẽ có một cuộc sống hạnh phúc và bình an.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết sống theo lời dạy của
thánh Augustino: “Phó thác quá khứ cho
lòng Thương xót của Chúa, hiện tại cho Tình yêu, và tương lại cho sự Quan phòng
của Ngài”. Xin cho chúng con trong khi bôn ba lo cho cuộc sống trần gian vẫn
biết ưu tiên dành thời giờ cho việc làm sáng danh Chúa và luôn sống theo ý
Chúa. Amen.
Sơn
Tây, ngày 27 tháng 02 năm 2014
Xét duyệt của Đức Giám Mục
ĐỨC TIN, ƠN BAN NHƯNG KHÔNG
LỄ
THÁNH PHÊRÔ VÀ PHAOLÔ
(Cv 2,1-11; 2Tm
4,6-8.17-18; Mt 16,13-19)
Phêrô Trần Văn Hương
ĐỨC TIN, ƠN BAN NHƯNG
KHÔNG
Kính thưa cộng đoàn,
Hôm nay Giáo hội long trọng mừng lễ
kính hai thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô. Hai con người, hai cuộc đời, đã trở
thành hai cột trụ Đức Tin vững bền của Giáo Hội. Một Phêrô chối Thày đến ba lần,
một Phaolô truy lùng, bắt bớ Giáo hội. Tất cả đã được Chúa biến đổi nhờ đức
tin. Nhờ đức tin, Phêrô được Chúa biến đổi trở thành tông đồ trưởng, đứng đầu
Giáo hội hoàn vũ. Nhờ đức tin, Phaolô đã trở nên vị tông đồ dân ngoại vĩ đại nhất.
Mừng lễ hôm nay, xin được cùng với cộng đoàn nhìn lại đời sống đức tin của hai
vị thánh tông đồ, từ đó, chúng ta duyệt xét lại đức tin của chúng ta trong đời
sống hôm nay.
Đức tin là một ơn ban nhưng không của Thiên Chúa,
Ngài ban cho ai thì người đó được. Đúng như thế, lời tuyên xưng niềm tin vào
Chúa Giêsu của thánh Phêrô trong bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta xác tín chắc
chắn Đức Tin là ơn ban từ Thiên Chúa: “Này
anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc
khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời”.
Đức tin không phát xuất từ con người phàm hèn, mà được
ban từ Thiên Chúa.
Có biết bao nhiều người đã bỏ công, bỏ thời gian để
tìm hiểu về Chúa, đọc và học hỏi Thánh Kinh của Chúa. Nhưng cuối cùng cũng chỉ
là dã tràng xe cát bể đông vì không có ơn Chúa ban.
Có biết bao nhiêu người, một chữ bẻ đôi cũng không
biết, vậy mà họ lại có một đức tin thật sâu sắc vào Chúa. Một đức tin dám quên
mình, hy sinh cả đến tính mạng vì Chúa.
Như thế, cùng với hai vị thánh tồng đồ hôm nay,
chúng ta phải cảm tạ Chúa đã ban cho chúng ta ơn đức tin, một hồng ân cảo cả
Chúa đã ban cho chúng ta. Chúng ta có được diễm phúc tin vào Chúa, chỉ vì Chúa
yêu chúng ta mà thôi.
Hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô cũng là những con
người yếu đuối như chúng ta. Các ngài cũng gặp biết bao thử thách trong đời sống
đức tin. Một Phêrô luôn luôn ở bên cạnh Thày mình, vậy mà chỉ một phút yếu đuối,
ngài đã chối bỏ thầy mình ngay trước mặt một người phụ nữ. Và không chỉ một lần,
ngài đã chối Thày tới ba lần. Nhưng nhờ ánh mắt nhân từ của Thầy Giêsu, Thánh
Phêrô đã xác tín niềm tin của mình, vượt qua mọi thử thách, bắt bớ để bảo vệ niềm
tin đó. Và nhờ được sứ thần của Thiên Chúa đến giải cứu ông đang bị gông cùm
trong nhà lao, nên ông càng xác tín mạnh hơn và quyết tâm mạnh hơn vào việc bảo
vệ đức tin này. Cho dù gặp gian lao thử thách, dù phải chết, ngài cũng quyết bảo
vệ đến cùng.
Thánh Phaolô cũng thế, một con người được Chúa ban
cho hồng ân đức tin sau khi Ngài sống lại. Trong khi thánh Phaolô đang hăm hở,
hăng say đi bắt các môn đệ và những kitô hữu của Chúa để bách hại, ông đã bị
Chúa đánh ngã ngựa, ánh sáng của Chúa làm
ông mù lòa trên đường đi Đamas. Thánh nhân khi ngã ngựa, nhận thấy thân phận
yếu đuối đã thưa với Chúa Giêsu: “Lạy
Ngài, Ngài là ai?” ( Cv 9, 5 ). Kể từ đây, Chúa đã chọn thánh Phaolô làm
tông đồ cho các dân ngoại như lời Chúa phán với Khanania: “ …Người ấy là lợi khí Ta chọn để mang danh Ta
đến trước mặt các dân ngọai, các vua chúa và con cái Irsaren” ( Cv 9, 15 ). Vì
Chúa, vì niềm tin vào Chúa, thánh Phaolô đã bảo vệ đến cùng.
Kính thưa
cộng đoàn,
Đức tin là
một ơn ban nhưng không, nhưng đức tin đòi chúng ta phải gắng sức cộng tác với
ơn Chúa để bảo vệ và giữ gìn. Chúng ta không được phép ỉ nại, cậy dựa vào những
khả năng của bản thân. Thánh Phêrô để lại cho chúng ta bài học về sự ỉ nại vào khả
năng khi ngài tuyên bố với Chúa. “Dù mọi
người bỏ Thầy, con đây cũng không bỏ Thầy”. Ba lần chối Chúa đã cho thánh
Phêrô nhận ra sự yếu đuối và khả năng của bản thân khi đứng trước các cám dỗ và
thử thách niềm tin vào Thày. Vì thế, mỗi chúng ta hãy cậy dựa vào ơn Chúa, xin
Chúa giúp sức để chúng ta can đảm giữ vững niềm tin như thánh Phaolô: “Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp,
đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa
dành cho người công chính”.
Sự kiên trì giữ vững niềm tin đã đem lại vòng hoa công chính cho hai thánh tông
đồ. Và mỗi chúng ta cũng sẽ được thưởng vòng hoa công chính như thế, nếu chúng
ta cũng can đảm chiến đấu trong cuốc thi đấu cao đẹp này.
Thưa cộng
đoàn,
“Đang
khi ông Phê-rô bị giam giữ như thế, thì Hội Thánh không ngừng dâng lên Thiên
Chúa lời cầu nguyện khẩn thiết cho ông”. Vâng, niềm tin được thể hiện trên
hai bình diện cá nhân và cộng đoàn. Nên giữ vững niềm tin không chỉ dừng lại ở
trên phương diện cá nhân mà cần có sự trợ giúp, nâng đỡ của cộng đoàn. Bởi thế,
trong nghi thức ra nhập đạo, người tân tòng nài xin Giáo hội ban cho mình ơn
đức tin. Anh chi, hay ông bà xin gì cùng Hội Thánh, thưa, con xin ơn Đức Tin.
Kính thưa
cộng đoàn,
Mừng lễ
hai thánh tông đồ hôm nay, Giáo hội mời gọi chúng ta xác tín hơn về đức tin mà
chúng ta đã được lãnh nhận, là đức tin được phát xuất từ Thiên Chúa; ơn cao, ơn
nhưng không. Đồng thời, Giáo hội mời gọi mỗi chúng ta phải giữ vững niềm tin đó
bằng nỗ lực cá nhân và trong sự gắn kết với đức tin của cộng đoàn.
Về cá
nhân: Chúng ta phải năng học hỏi giáo lý và lời Chúa, gắn kết với Chúa bằng lời
kinh và Thánh lễ, đặc biệt là bí tích Thánh Thể.
Với cộng
đoàn: Chúng ta phải sống trong sự hiệp nhất, đoàn kết, yêu thương, để cộng đoàn
trợ giúp chúng ta bằng lời cầu nguyện, bằng sự nâng đỡ khi gặp khó khăn thử
thách. Sự nâng đỡ của cộng đoàn là yêu tố rất quan trong để chúng ta giữ vững
niềm tin của mình. Bởi thế, nếu một thành viên sống xa cộng đoàn xa gia đình,
giáo họ, giáo xứ, chắc chắn sẽ dễ bị mại một đức tin, dễ bị thử thách và dẫn
tới mất đức tin hơn.
Mừng lễ
hai thánh tông đồ trong Năm Thánh Hóa Gia Đình, Giáo hội mời gọi chúng ta quy
tụ bên nhau trong giờ kinh gia đình, để cùng nhau xét duyệt lại đời sống đức
tin, đời sống gắn bó trong yêu thương và hiệp nhất ngay tại gia đình mình. Có
được như thế, chúng ta sẽ giúp cho giáo xứ, giáo họ trở thành một cộng đoàn
trưởng thành trong đức tin và đức ái. Và là một cộng đoàn sống sứ vụ của Chúa
ki-tô là đem những con chiên lạc về cho Chúa. Vì gia đình là nên tảng của Giáo
hội, gia đình tốt, Giáo hội sẽ trở nên tốt.
Xin hai
thánh tông đồ Phêrô và Phaolô là cột trụ đức tin vững chắc của Giáo hội, chuyển
lời cầu của chúng ta lên cùng Chúa. Xin Chúa ban thêm cho mỗi chúng ta ơn đức
tin, để mỗi người chúng ta đều dành vòng hoa chiến thắng trong cuốc chạy đua
trên đường đua đức tin. Amen.
Sơn
Tây, ngày 28 tháng 06 năm 2014
Xét duyệt của Đức Giám Mục
LỄ THÁNH GIUSE THỢ
LỄ THÁNH GIUSE THỢ
(St 1,26-2,3; Cl 3,14-15.17.23-24;
Mt 13,54-58)
Kính thưa cộng đoàn, cách riêng Quý thành
viên hội Gia Trưởng giáo họ Tiên Cát,
Hôm nay chúng ta cùng với toàn thể
Giáo hội mừng lễ Thánh Giuse Thợ, là ngày Quốc tế lao động trên toàn thế giới,
cũng là bổn mạng của Hội Gia Trưởng giáo họ Tiên Cát chúng ta. Nhân ngày lễ
này, con xin được cùng với quý cộng đoàn, nhìn lại giá trị của lao động và mẫu
gương lao động của thánh Giuse, từ đó, chúng ta đưa ra bài học theo gương sống
của thánh nhân và cảm mến chân giá trị của đời sống lao động.
Đời sống lao động luôn gắn liền với con người: người ta có thể làm
việc chân tay và có người dùng tới trí óc. Tất cả đều là lao động. Chắc chắn
lao động nào cũng phải đổ mồ hôi, cũng phải vất vả. Tại sao lại như vậy? đây có
phải là nguyên nhân mà chúng ta tự nhủ và truyền tai nhau là do hậu quả của tội
nguyện tổ không?
Quan điểm ki-tô giáo về lao động: Thánh Kinh nói gì? Kinh thánh khẳng định: lao động không phải là một
hình phạt do tội, nhưng là điều kiện bình thường của con người. Vì trước khi
con người sa ngã, “Thiên Chúa đã đặt con người trong vườn Eđen để canh tác và
giữ vườn” (St 2, 15), để con người được cộng tác và hòa hợp vào ý muốn của
Thiên Chúa, vì Thiên Chúa muốn thấp nhập lao động vào chương trình của Người
sau khi tạo dựng vũ trụ. Thiên Chúa đặt lao động vào tay con người với quyền
chiếm hữu và cai trị trái đất (1, 28).
Đây là một dữ kiện nền tảng của đời
sống con người vì lao động gắn chặt đời sống con người, nên khi nguyên tổ sa
ngã phạm tội, lao động đã bị ảnh hưởng sâu xa bởi tội: “Ngươi phải đổ mồ hôi
trán mới có ăn” (St 3, 19).
Tại sao vậy, chúng ta phải hiểu thế nào, thưa,
ta cần hiểu cho đúng. Đối tượng lời chúc dữ của Thiên Chúa không phải là lao
động cũng như không phải là chính việc sinh nở của phụ nữ. Việc sinh nở là một chiến
thắng đớn đau của sự sống trên cái chết, thì lao động đổ mồ hôi hằng ngày của
con người đánh dấu việc thể hiện quyền bính mà Thiên Chúa đã ban cho con người.
Tại sao chúng ta thấy lao động là một nỗi khổ,
là một hình phạt, thưa là vì trong con người chúng ta có sự thay đổi về đời
sống nội tâm sau khi phạm tội, chúng ta đã nhìn thế giới, nhìn lao động bằng
một cặp mắt khác.
Trong cuộc sống hằng ngày, nơi các
công trình xây dựng, hay đâu đó nơi các biển hiệu quảng bá, vẫn nhắc nhớ chúng
ta rằng: Lao động là vinh quang.
Vậy là người kitô hữu, chúng ta phải có được quan
niệm về lao động với ý nghĩa cao cả như thế.
Phải đề cao lao động, Tại sao?
Thưa bởi vì Đức Giêsu không bao giờ loại trừ lao động ra khỏi cuộc sống của
Người. “Cha Tôi hằng làm việc, Tôi cũng làm việc”
(Ga 5,17). Những người đồng hương với Đức Giêsu đã không lầm khi gọi Người là
“con bác thợ” (Mt 13, 35), là “ông thợ mộc” (Mc 6, 3). Và Người đã sống nghề
lao động trong suốt 30 năm trời tại Nadarét.
Đức Giêsu lao động, Ngài đem lại ý nghĩa
gì cho niềm tin chúng ta? Thưa, Đức Giêsu lao động là
muốn nói lên rằng: lao động đã mang một ý nghĩa cứu độ Ngài đảm nhận thân phận
con người cũng chỉ vì điều này, bởi “cái gì không được đảm nhận thì không được
cứu độ” (Thánh Irênê). Cho nên phải nói rằng, với Đức Giêsu, 30 năm lao động âm
thầm, Đức Giêsu chẳng những đã thánh hoá công việc, nhưng còn biến nó thành một
phương tiện cứu độ khi liên kết nó với tất cả công trình cứu độ của Người. Cho
nên, lao động là thành phần của mầu nhiệm Nhập Thể của Đức Kitô, nếu không thì
những năm tháng tại Nadarét chẳng có một ý nghĩa nào khác ngoài việc Chúa lao
động để kiếm miếng cơm manh áo?
Lao động quả thật phải được
đề cao. Tuy nhiên, Đức Giêsu dạy ta không được dừng lại ở đó. Lao động chỉ là
một giá trị trong bậc thang các giá trị mà thôi.
“Hãy lao động đừng vì lương thực hư
nát, nhưng vì lương thực sẽ lưu lại mãi mãi đến sự sống đời đời” (Ga 6, 27). Đây
phải là châm ngôn sống của người kitô hữu.
Người thực hiện châm ngôn sống rất
hoàn hảo này trước tiên là Thánh Giuse. Ngài chắc hẳn là người đã sống ý nghĩa
của lao động trong chính cuộc đời sống trần thế của ngài. Ngài là một mẫu gương
lao động cần cù.
Đứng đầu gia đình thánh tại Nagiarét, thánh Giuse đã cần cù lao
động, âm thầm thinh lặng và làm việc, đưa lại cho lao động một ý nghĩa cao sâu
linh thánh. Thánh Giuse đã chấp nhận một công việc, một nghề tay chân: nghề thợ
mộc. Với nghề thợ mộc, một nghề không có gì là vinh dự lắm trong xã hội Do
Thái, thánh Giuse vẫn kiên trì phục vụ. Ngài làm việc với tất cả ý thức trách
nhiệm của mình. Qua việc làm, qua nghề thợ mộc, thánh cả Giuse đã âm thầm chiêm
ngắm mầu nhiệm nhập thể của Con Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô, Đấng đang sống
nhờ nghề thợ mộc của Ngài. Nơi Nagiarét, thánh Giuse đã phục vụ hết mình: mồ
hôi, sự mệt nhọc và lòng hy sinh, quảng đại cố gắng của thánh Giuse đã mặc cho
lao động một ý nghĩa tốt đẹp.
Chúa Giêsu trong gia đình thánh nagiarét đã học nơi thánh Giuse sự
cần mẫn lao động. Học nơi Mẹ Maria sự kiên nhẫn, đơn sơ phục vụ trong những
công việc gia đình hết sức tầm thường nhưng là những công việc của đời thường,
là những lao công của cuộc đời con người.
Khởi đi từ gia đình Nagiarét, người Kitô hữu trên khắp thế giới
cũng được mời gọi yêu mến lao động dù là lao động chân tay hay lao động trí óc.
Tất cả đều được gọi mời gắn liền với thánh cả Giuse, quan thầy và là Đấng bảo
trợ của giới lao động. Trong một thế giới đan xen ánh sáng và bóng tối, trong
một thế giới văn minh tuyệt đỉnh, lao động dù trí óc, chân tay hay kỹ thuật máy
móc điện tử vẫn luôn cần thiết. Sự im lặng: nói ít, làm với hết khả năng, với
óc sáng tạo luôn được đề cao, trân trọng. Thánh Giuse đã im lặng để phục vụ, để
làm việc. Sự thinh lặng nội tâm của Ngài luôn có một ý nghĩa quan trọng. Thánh
Giuse đã luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm: làm việc với đức tin, với lòng yêu
mến.
Trong năm thánh hoá gia đình, Giáo
hội mời gọi tất cả mọi người tin hữu, đặc biệt mỗi thành viên của Hội Gia
Trưởng đã nhận Ngài làm thánh bổn mạng xét lại việc lao động trong mọi gia đình,
vì cuộc đời của từng con người liên kết chặt chẽ với công ăn việc làm của mình.
Gia đình có đủ ăn, đủ mặc, gia đình có bảo đảm được vật chất, kinh tế của mình,
đời sống tâm linh mới tốt hơn.
Thánh Giuse đã nêu gương cần lao, đã biến gia đình Nagiarét thành
trường đào tạo công ăn việc làm với tất cả lòng tin yêu.
Chúa Giêsu cũng đã xuất thân trong gia đình Nagiarét, đã chấp nhận
một công việc và làm cho việc lao động tràn đầy ý nghĩa.
Mừng lễ thánh Giuse thợ, chúng ta cầu xin thánh cả Giuse cầu thay
nguyện giúp để mọi người, mọi gia đình, đặc biệt mỗi gia đình của thành viên
trong Hội Gia Trưởng luôn yêu mến và nêu gương trong công việc của mình, vì
những công việc chân chính sẽ giúp cộng tác vào công trình cứu độ của Chúa. Xin
Chúa chúc phúc cho mỗi chúng ta. Amen.
Thứ Hai, 14 tháng 7, 2014
TIN MỪNG KHÔNG CHỌN ĐẤT SỐNG
CHÚA
NHẬT XV TN A
(Is 55,10-11; Rm 8,18-23; Mt 13,1-9)
Phêrô Trần Văn Hương
Kính thưa cộng đoàn,
Đúng như thế, Tin mừng Chúa Nhật XV hôm
nay, cho chúng ta một xác tín chắc chắn rằng: Tin mừng Thiên Chúa gieo vào mảnh
đất tâm hồn của mọi người, không lựa chọn riêng ai. Quan trọng chúng ta đón nhận
như thế nào để hạt giống Tin mừng sinh hoa kết trái.
Hình ảnh người đi gieo giống trong bài
Tin mừng hôm nay, là hình ảnh của của Thiên Chúa gieo Lời Chúa vào tâm hồn
chúng ta.
Nếu ai trong chúng ta đã từng làm nghề
nông, chắc chắn không khỏi ngỡ ngàng và thắc mắc, tại sao người gieo giống lại
có một thái độ lạ kỳ như vậy? Hào phóng
và lạc quan đến lạ kỳ. Một thái độ
khác xa hoàn toàn thái độ của một người nhà nông, không bao giờ được phép lãng
phí hạt giống và công sức trên những mảnh đất cằn cỗi, sỏi đá. Nhưng đó là nét
đẹp của văn hóa nông nghiệp Do Thái. Chúa Giêsu mượn bối cảnh này để chuyển tải cho
chúng ta một xứ điệp tuyệt vời về việc trao ban Lời Chúa cho con người. Một sự trao
ban vô vị lợi, vượt lên sức tưởng tượng của con người.
Đúng
vậy, hạt giống Lời Chúa không chỉ dành cho những mảnh đất mầu mỡ, nhưng phải được
tung vãi khắp nơi, cả bên vệ đường, trên sỏi đá hay giữa bụi gai. Lời Chúa
không chỉ nói cho các Giám mục, linh mục, tu sĩ…nhưng cho mọi người, mọi nơi, từ
người khỏe mạnh đến người đau ốm, từ người trẻ đến người già, từ người giàu có
đến người nghèo khổ, người tin cũng như người chưa tin, không phân biệt mầu da,
ngôn ngữ.
Để hiểu
về tấm lòng quảng đại vô vị lợi của Chúa trong việc gieo Lời Chúa vào tâm hồn
chúng ta, chúng ta cùng nhau tìm hiểu bối cảnh văn nông nghiệp đất nước Do Thái,
từ đó áp dụng vào Lời Chúa.
Khung cảnh địa dư của
người Do Thái rất khác với đất nước chúng ta. Ở Do Thái có nhiều đồi núi, vì thế
đất canh tác không nhiều, nên người dân Do Thái phải trồng lúa dọc theo những
triền đồi, triền núi đầy sỏi đá. Họ nhặt đá, xếp thành bờ ngăn, do đó mép bờ là
nơi có nhiều gai mọc. Ở những vùng đất thiếu nước thì gai là loài cây dại phổ
biến, vì nó có sức chịu khô lâu nhất. Trên mảnh đất ấy, người ta cũng làm một lối
đi nhỏ, vừa để ngăn nước và cũng để đi lại. Khi gieo hạt, để có thể reo kín hạt
trên thửa ruộng, họ phải chấp nhận có sự hao hụt khi vung tay reo. Bởi thế! Có hạt
giống rơi vào ba loại đất không thể kết trái: vệ đường, sỏi đá và bụi gai.
Chúa Giêsu đã quan sát
rất kỹ và tinh tế hình ảnh này. Cho nên, người đã dùng nó để làm dụ ngôn chỉ
cho chúng ta về con đường mà hạt giống Tin mừng sẽ được gieo vào lòng người.
Chúa Giêsu dùng dụ ngôn
này diễn tả hình ảnh Thiên Chúa quảng đại với con người trong việc trao ban ơn
cứu độ. Người luôn rộng tay ban phát để hạt giống Lời Chúa được phủ kín thửa ruộng
tâm hồn con người. Người đã làm tất cả, đôi khi biết nó không kết trái, nhưng vẫn
hy vọng một ngày nào đó Lời Chúa được thấm sâu vào lòng người sẽ được trổ sinh
bông hạt.
Bài đọc I hôm nay, cho
chúng ta xác tin thêm vào việc Thiên Chúa không chỉ quảng đại reo hạt, nhưng
còn quảng đại chăm sóc để hạt giống được nảy mầm tốt tươi, hầu đơm hoa kết
trái. Như mưa tuyết từ trời rơi xuống mà không trở về trời nữa, nhưng chúng thấm
xuống đất làm cho đất phì nhiêu, cây cối sinh mầm.
Kính thưa cộng đoàn,
Tấm lòng Thiên Chúa quảng
đại là như thế, Người reo hạt giống Lời Chúa để mong có ngày nảy sinh hoa trái.
Tuy vậy, để cho hạt giống Lời Chúa sinh được hoa trái, cần có sự cộng tác là
thái độ đón nhận, là chính thửa đất là tâm hồn chúng ta. Chúng ta cần có một tấm
lòng biết mở rộng đón nghe Lời Chúa, suy niệm Lời Chúa, sống Lời Chúa, thực
hành Lời Chúa. Hơn nữa, sẵn sàng nói Chúa cho mọi người.
Vậy, tâm hôn chúng ta
đang thuộc về thửa đất nào?
Hạt
rơi bên vệ đường, là người nghe mà không hiểu.
Đó
là những người không chú ý lắng nghe Lời Chúa, họ vô tâm, vô tình, không hiểu,
không nhớ.
Hạt
rơi trên sỏi đá, là người nghe mà không theo.
Là
những người không có lặp trường vững chắc, không thực hành và suy niệm Lời
Chúa, gặp thử thách, họ bỏ Chúa.
Hạt
rơi vào bụi gai, là người nghe rồi tin và theo Chúa, nhưng không thực hành lời
Chúa. Là những người quá đam mê trong đời sống hàng ngày.
Kinh tế, chức quyền, danh vọng, vui thú…
Hạt
rơi vào đất tốt và trổ sinh hoa trái. Là những người nghe Lời
Chúa với tấm lòng đơn sơ cao thượng và quảng đại, rồi suy ngẫm Lời Chúa và đem
ra thực hành.
Kính thưa cộng đoàn,
Dụ ngôn “Người Gieo Giống” đòi chúng ta phải xét lại
thái độ nghe Lời Chúa, đòi ta phải cải tạo lại mảnh đất lòng mình, để tăng thêm
sinh lực giúp chúng ta sống Lời Chúa. Lời Thiên Chúa đã phán ra chỉ trở về khi
đã đạt được kết quả. Bổn phận của chúng ta là phải nỗ lực làm cho hạt giống Lời
Chúa mọc lên tươi tốt, đâm rễ sâu trong tâm hồn, phát sinh những công việc phù
hợp với đức tin và đem lại những kết quả tốt đẹp.
Chúng ta cần phải có một
thái độ khác hơn để cải thiện mảnh đất tâm hồn mình trước sự quảng đại của
Thiên Chúa. Đất Sỏi đá, nơi bụi gai, bên vệ đường vẫn tiếp tục tồn tại bên
cạnh mảnh đất tốt của đời người. Thiên Chúa vẫn tiếp tục quảng đại reo hạt Lời
Chúa. Ngài đã không hề thất vọng, nhưng tràn đầy kiên nhẫn và hy vọng.
Vì thế, Năm thánh hóa
gia đình là cơ hội rất tốt mà Giáo hội mời gọi ta đến với Lời Chúa trong đời sống
hằng ngày. Mỗi buổi tối, chúng ta hãy cố gắng bỏ ra mươi phút để đọc và suy niệm
Lời Chúa. Mưa dầm chắc chắn sẽ thâm lấu. Như thế, chỉ cần với tâm lòng chân
thành, đơn sơ khiêm tốn, kiên trì, Lời Chúa sẽ sinh hoa kết trái trong chúng
ta, trong gia đình, giáo họ và giáo xứ. Từ đó, cuốc sống chúng ta luôn đầy tràn
niềm vui, bình an và sự thánh thiện dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Xin Thiên Chúa là Đấng yêu thương
quảng đại trao ban Lời Chúa cho chúng con và quảng đại tuôn đổ ân sủng Chúa
trên mảnh đất cuộc đời chúng con.
Xin giúp mỗi người chúng con đang
hiện diện nơi đây, biết cộng tác với ân sủng, để hạt giống Lời Chúa được trổ
sinh hoa trái trên mảnh đất cuộc đời chúng con.
Xin cho mỗi người chúng con trở lên
một cuốn Kinh Thánh sống động chứa đựng Lời Hằng Sống, đem lại hạnh phúc muôn đời
cho chúng con! Amen.
Sơn
Tây, ngày 9 tháng 07 năm 2014
Xét duyệt của Đức Giám Mục
TƯƠNG QUAN VỚI CHÚA
CHÚA
NHẬT XIV TN A
(Dc 9, 9-10: Rm 8, 9.11-13: Mt 11, 25-30)
Phêrô Trần Văn Hương
TƯƠNG QUAN VỚI CHÚA
Bài
Tin mừng chúng ta vừa nghe, được đọc lên trong thánh lễ kính Thánh Tâm Chúa, Giáo
hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm trái tim hết mực yêu thương của Chúa,và học nơi
Chúa sự hiền lành và khiêm nhường. Và hôm nay chúng ta được nghe lại bài Tin mừng
này trong Chúa nhật XIV TN năm A. Giáo hội mời gọi chúng ta suy niệm ở một khía
cạnh khác, là cùng với Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha bài ca chúc tụng ta ơn, vì
chúng ta được biết Chúa, được làm con Chúa, được học nơi Chúa sự hiền lành và
khiêm nhường thật. “Lạy Cha là Chúa Tể trời
đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái
biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha,
vì đó là điều đẹp ý Cha”.
Đức
Giêsu chúc tụng ngợi khen Chúa Cha vì Ngài và Chúa Cha có một mối tương quan
sâu xa. Đức Giêsu chúc tụng Chúa Cha, vì Ngài chính là trung gian giữa Chúa Cha
và con người. Ngài chúc tụng Chúa Cha thay cho những con người bé mọn, khiêm
nhường, đơn sơ và chân thành. Phải trở nên đơn sơ, chân thành, khiêm nhường thật,
chúng ta mới có thể nhận biết Ngài.
Vì
thế, tìm hiểu về mối tương quan giữa Đức Giêsu và Chúa Cha, giữa chúng ta với Đức
Giêsu, là cơ hội tốt để chúng ta biết cất lời ca tụng Chúa đã cho chúng ta được
làm con Chúa.
Mối tương quan
sâu xa giữa Đức Giê-su và Chúa Cha.
Tại sao Đức
Giê-su lại muốn nêu bật mối tương quan giữa Người với Chúa Cha? Thưa, Đức
Giê-su muốn giới thiệu (mạc khải) mối tương quan ấy vì: đã có nhiều người
Do-thái, cách riêng là nhóm Pha-ri-siêu và các kinh sư cố tình hoài nghi và
không tin vào Đức Giê-su đến từ Chúa Cha. Vì thế, Đức Giê-su muốn cho họ biết:
Người đến từ Chúa Cha, và Người chính là Thiên Chúa. Người đã được tiên báo trước
rằng Ngài sẽ đến, và đến từ đâu, nhưng phải chăng người Do-thái đã quên điều
này. Hôm nay tác giả sách Da-ca-ri-a trong bài đọc I đã nhắc lại: Đấng Cứu Thế sẽ
đến: “Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui
sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Người là Đấng Chính
Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa”. Vâng! Đức Vua, Đấng
Chính Trực hay Đấng Toàn Thắng, đó chính là Đức Giê-su, Ngôi Hai Thiên Chúa làm
người.
Quả vậy, ngay
khi nguyên tổ phạm tội, Thiên Chúa đa ban lời hứa sẽ có Đấng Cứu Độ, Ngài không
loại bỏ con người, nhưng con người phải chờ đợi, đợi đến thời viên mãn, Thiên
Chúa sẽ sai chính Ngôi Hai, Con của Ngài xuống thế làm người để chuộc tội nhân
loại. Chính vì thế, khi đến trần gian, Đức Giê-su luôn ý thức rằng: Người đến từ
Chúa Cha, nên “Không ai biết rõ Chúa Cha,
ngoại trừ người Con”, và “không ai biết
rõ người Con, trừ Chúa Cha”. Vì đến từ Chúa Cha, nên Đức Giê-su mong muốn mạc
khải Chúa Cha cho loài người. Do đó, ai muốn biết và gắn bó với Chúa Cha thì
người đó phải biết và gắn bó với Đức Giê-su. Nói cách khác, kẻ nào không tin
vào Đức Giê-su thì không thể có mối tương quan với Chúa Cha được. Chúng ta hôm
nay sẽ giống những người Do-thái xưa, nếu cố tình hoài nghi, hoặc không tin vào
Đức Giê-su, thì kết cục, chúng ta không thể nào đến được với Chúa Giêsu, và
cũng không thể có được mối tương quan với Thiên Chúa là Cha.
Như vậy, muốn có
mối tương quan với Chúa Cha, thì con người phải tin tưởng vào Đức Giê-su và có
mối tương quan mật thiết với Người. Nhưng ai có thể đến được với Đức Giê-su và
gắn bó với Người?
Thưa là chính
chúng ta, những người đang hiện diện ở đây, những người đang đón nhận Chúa với
tâm hồn đơn sơ, khiêm nhường.
Mối tương quan giữa con người với Đức Giêsu.
Đức tin dạy
chúng ta, Đức Giê-su đến từ Chúa Cha và được “Chúa Cha trao phó mọi sự cho Người”. Do đó, Đức Giê-su rất muốn mạc
khải mầu nhiệm Nước Trời cho hết mọi người, không loại trừ ai. Với mục đích cứu
rỗi con người, đưa con người về với Chúa là Cha, và hưởng sự sống đời đời. Vì thế,
khi tận mắt chứng kiến những người dân Do Thái hiền lành, đang phải oằn mình
mang những gánh nặng nề, là những lề luật bất công của các nhà lãnh đạo tôn
giáo Dothái, Đức Giê-su đã chạnh lòng thương. Người kêu mời họ “Đến với Tôi, và hãy mang lấy ách của Tôi và
học cùng Tôi”, “Vì ách của Tôi thì êm ái, và ghánh của Tôi thì nhẹ nhàng” .
Mang lấy ách của Đức Giê-su và học cùng Đức Giêsu, có nghĩa là hãy đón nhận các
Giáo lý Tin Mừng và tin tưởng vào Đức Giê-su. Tin mừng đó là Tin mừng yêu
thương. Chỉ có tình yêu mới giúp ta vượt qua mọi khó khăn vất vả. Ca dao tục ngữ
Việt nam đã dạy: “Yêu nhau mấy núi cũng
leo, mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua”.
Và kinh nghiệm trong
đới sống cũng cho chúng ta thấy, cho dù công việc khó khăn, vất vả đến đâu, nều
có tình yêu thì sẽ trở nên nhẹ nhàng, vui tươi và hạnh phúc. Không có tình yêu,
thì trở nên một cực hình.
Vậy, con người
chỉ có thể có mối tương quan tốt với Đức Giê-su, khi họ tin tưởng và đón nhận
Tin Mừng tình thương của Người với lòng đơn sơ khiêm nhường. Còn những người
kiêu ngạo, tự cao tự phụ, chắc chắn sẽ không nhận ra được Chúa.
Như thế, con người
chỉ có thể tin và gắn bó với Chúa Cha, nếu họ tin và gắn bó với Đức Giê-su. Mà
muốn tin và gắn bó với Đức Giê-su, thì họ phải đón nhận và học hiểu Tin mừng của
Đức Giêsu với lòng hiền lành và khiêm nhường. Đức Giê-su sẽ “bó tay” trước những
con người kiêu căng, tự cho mình là thông thái mà cố tình không chịu tin vào
Người.
Kính thưa cộng đoàn,
Sống giữa một thế
giới tân tiến và tục hóa hôm nay, con người rất dễ trở nên kiêu ngạo, ích kỷ, khiến
đức tin bị lu mờ và xa dần Thiên Chúa. Việc đến với Chúa, tin tưởng và gắn bó với
Chúa quả là một thách đố đối với nhiều người, nhất là với các bạn trẻ. Chính vì
thế, để có thể tin tưởng vào Đức Giê-su và có mối tương quan với Người, thì mỗi
người hãy cố gắng loại bỏ dần tính kiêu căng ra khỏi lòng mình. Hãy học nơi
Chúa tấm lòng nhân hậu và khiêm nhường. Chỉ như thế, tâm hồn chúng ta mới thực
sự trở nên mảnh đất tốt để hạt giống Lời Chúa được nảy nở, phát triển và trổ
sinh nhiều bông hạt. Hơn nữa, chúng ta phải xin ơn Chúa Thánh Thần như trong
bài đọc II thư gửi giáo đoàn Rô-ma thánh Phao-lô nhắc nhớ chúng ta: “Ai không có Thần Khí của Đức Ki-tô, thì
không thuộc về Đức Ki-tô”.
Năm phúc âm hóa
gia đình, Giáo hội mời gọi chúng ta gắn bó với Lời Chúa trong ơn soi sáng của
Chúa Thánh Thần. Đọc và suy niệm Lời
Chúa trong giờ kinh gia đình, là một cơ hội giúp ta tạo được mối tương
quan thân tình với Chúa, Chúa nói với ta, ta nói với Chúa.
Chỉ khi siêng
năng đọc, suy niệm và sống Lời Chúa, Lời Chúa mới thấm nhuần nơi tâm hồn mỗi
người. Và chỉ khi yêu mến và gắn bó với Lời Chúa, chúng ta mới thực sự gắn bó mật
thiết với Chúa Giê-su. Thật vậy, chính thánh Giê-rô-ni-mô đã khẳng định: “không biết Kinh Thánh là không biết Chúa
Ki-tô”. Không biết Chúa chắc chắn không thể nào nói yêu mến Chúa. Không yêu
Chúa, chắc chắn chúng ta không thể nói lên lời ca tụng Chúa là Cha chúng ta được.
Lạy Chúa Giê-su
Ki-tô, xin cho mỗi người chúng con luôn tin tưởng và có mối tương quan mật thiết
với Chúa “như cành cây hợp với thân cây”.
A-men.
Sơn
Tây, ngày 4 tháng 07 năm 2014
Xét duyệt của Đức Giám Mục
THÁNH THỂ, BÍ TÍCH CỦA TÌNH YÊU
CHÚA
NHẬT XII TN A
LỄ
MÌNH VÀ MÁU THÁNH CHÚA
(Đnl 8,2-3.14b-16a;
1Cr 10,16-17; Ga 6,51-58)
Phêrô Trần Văn Hương
THÁNH THỂ, BÍ TÍCH CỦA
TÌNH YÊU
Kính thưa cộng đoàn,
Thánh lễ là trung tâm của mọi sinh
hoạt trong đời sống Giáo hội, và đỉnh cao của thánh lễ là Bí tích Thánh Thể.
Hôm nay, Giáo hội long trọng mừng lễ
trọng kính Mình và Máu Thánh Chúa, là bí tích cao trọng nhất, là nguồn mạch
nuôi dưỡng đời sống người ki-tô hữu. Tối hôm qua, Giáo xứ chúng ta đã cung
nghinh Thánh Thể Chúa ra bên ngoài nhà thờ tại giáo họ Sơn Vi, nhằm suy tôn
Thánh Thể và khơi dậy trong chúng ta một đức tin sâu sắc, một lòng mến thiết
tha nơi Thánh Thể. Thánh Thể Chúa, là kết quả của một tình yêu tự hiến. Thánh
Thể là một bí tích của tình yêu trao ban đến quên mình cho người mình yêu. Khi
nói tới Thánh Thể Chúa, là nói tới bữa tiệc của sự hiệp thông, bữa tiệc của
tình yêu. Là bữa tiệc, vì chính Chúa đã thiết lập bí tích Thánh Thể từ một bữa
ăn trong đêm ăn mừng lễ Vượt Qua. “Anh em
hãy cầm lấy mà ăn. Hãy cầm lấy mà uống vì là Thịt Thầy, là Máu của Thầy, Là một
giao ước vĩnh cửu, anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”
Tin mừng hôm nay Chúa khẳng định thật
rõ:
“Tôi
là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh
Tôi sẽ ban tặng, chính là thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga
6,51).
Kính thưa cộng đoàn,
Sau khi Đức Giêsu nói những lời này
xong, đã gây ra một cuộc tranh luận rất sôi nổi trong dân Do Thái. Thắc mắc của
người Do thái chính là việc Đức Giêsu làm thế nào để lấy thịt của Ngài cho họ
ăn. Điều này họ chưa hề thấy bao giờ, thậm chí còn chưa hề nghe nói có ai lấy
thịt mình cho người khác ăn. Họ thắc mắc bởi họ hiểu lời Chúa nói theo cả hai
nghĩa. Nghĩa đen là ăn thịt sống của Chúa Giêsu. Nghĩa bóng là tin vào Chúa và
theo Chúa. Còn Chúa Giêsu khi nói ra câu đó, Ngài nhằm nói theo nghĩa nào? Thưa,
Chúa nói theo nghĩa đen là ăn thịt Chúa. Đúng vậy, vì nguyên gốc của động từ “ăn”
là Trô-gô nghĩa là “nhai”. Khi nhai, phải dùng răng để nhai thứ gì đó. Chúa
dùng động từ ăn, là nói lên việc ăn thịt Chúa thật. Động từ này Chúa dùng rất
nhiều lần, được nhắc đi nhắc lại rõ ràng, liên tục.
Chúa tuyên bố dứt khoát: “Thịt ta thật là của ăn và máu ta thật là của
uống” (Ga 6,55). Không chỉ dừng lại ở điều này, Chúa còn nhấn mạnh hơn: “Nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con
Người, các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì được
sống muôn đời, Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại
trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy ” (Ga 6,52-56).
Tại
sao Chúa lại làm như vậy? Thưa, vì quá yêu chúng ta, vì Chúa muốn ở lại với
chúng ta, muốn chúng ta nên một với Chúa, muốn chúng ta được hòa làm một với
Chúa, Chúa ở trong ta, ta ở trong Chúa. Như người mẹ quá yêu con, muốn con nên
một với mình, quá yêu con nên đã ôm ghì lấy con, khiến con khóc òa lên, nhưng rồi
con lơn lên, con tách cha mẹ để sống riêng. Chúa yêu ta hơn cha mẹ, Ngài đã thiết
lập Bí Tích Thánh Thể để ở lại với chúng ta, để cả hài hòa tan trong nhau. Thật
là tuyệt vời, ta được nên một với Chúa.
Mừng lễ Mình và Máu Thánh Chúa, Giáo hội mời gọi
chúng ta xét duyệt lại việc chúng ta đến với bí tích Thánh Thể Chúa như thế nào.
Mỗi thánh lễ, đặc biệt là thánh lễ Chúa Nhật, chúng ta được mời gọi tới tham dự
bàn tiệc Thánh Thể của Chúa. Là bữa ăn được Chính Chúa Giêsu thiết lập trong bối
cảnh bữa tiệc. Chúa mời gọi chúng ta tới gặp gỡ Ngài để được rước chính Ngài
vào ngự trong cung lòng chúng ta, để mỗi chúng ta và Chúa trở nên một với nhau.
Bữa ăn của Chúa giống
như bữa ăn trong đời sống sinh hoạt thường ngày của chúng ta. Chúng ta đến với
nhau để chia sẻ niềm vui, nỗi buồn, chia sẻ mọi biến cố trong cuốc đời của những
người thân, những người hàng xóm, những người trong cùng giáo họ, giáo xứ. Bữa
ăn thể hiện sự liên đới với nhau bằng tình huynh đệ, chia sẻ với nhau bằng bữa
tiệc vui. Bữa tiệc ấy không hề có sự phân biệt già trẻ lớn bé, không phân biệt
giàu nghèo, tất cả đều có một chỗ cho riêng mình.
Cũng thế, đến với bàn
tiệc Thánh Thể, tất cả chúng ta được quy tụ xung quanh bàn tiệc của Chúa, chúng
ta được nói chuyện với Chúa bằng bàn tiệc Lời Chúa. Chúng ta thân thưa lại với
Chúa bằng bài thánh vịnh, bằng những câu đáp tung hô. Và chúng ta được mời gọi
tham dự bữa ăn huynh đệ, bữa ăn của Chúa là rước chính Mình và Máu Chúa. Đến với
bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta không còn bị phân biệt màu da sắc tộc, lớn bé,
giàu nghèo. Tất cả chúng ta đều có quền có một chỗ ngồi để tham dự bàn tiệc
Thánh Thể. Hơn nữa, chúng ta còn được mời gọi tham dự bữa tiệc cách trọn vẹn.
Khi đi tham dự bữa tiệc,
chúng ta đến với gia chủ, chỉ tay bắt mặt mừng rồi ra về không ăn uống, gia chủ
sẽ rất buồn, buồn vô cùng. Chúa cũng vậy, Chúa đã dọn sẵn cho con cái của Người
bữa tiệc thật linh thiêng, sang trọng, bữa tiệc không đơn thuần là nuôi dưỡng
phần xác mà là nuôi dưỡng phần linh hồn, làm của ăn đàng đưa chúng ta tới gặp
Chúa. Nếu chúng ta không tham dự bàn tiệc Mình Máu Thánh Chúa, Chúa cũng sẽ rất
buồn, buồn lắm, và như thế, chúng ta tham dự không trọn vẹn. Bởi thế, chúng ta
hãy cố gắng để tham dự cách trọn vẹn bữa tiệc Chúa đã dọn sẵn cho chúng ta, mỗi
khi đi tham dự thánh lễ.
Kính thưa cộng đoàn,
Mừng lễ Mình và Máu
Thánh Chúa, chúng ta được mời gọi hãy xác tín niềm tin vào bàn tiệc của Chúa,
là của ăn nuôi dưỡng đời sống chúng ta. Nơi bàn tiệc Thánh Thể, Chúa đã dọn sẵn
cho chúng ta, Ngài luôn mở rộng bàn tay đón mời chúng ta đến lãnh nhận, để được
trở nên một với Chúa, được Chúa nuôi dưỡng và ban cho ta sự sống đời đời bằng
Thịt và Máu Chúa. Khi rước lễ, là chúng ta không chỉ được hiệp thông với Chúa
mà con được hiệp thông với nhau, với hết mọi người trong gia đình, giáo họ,
giáo xứ, vì chúng ta có Chúa trong mình. Xin Chúa Giêsu Thánh Thể nâng đỡ đức
tin của chúng ta, để mỗi người chúng ta trở thành con người yêu mến Thánh Thể,
trở thành người Thánh Thể, để mỗi ngày trở nên giống Chúa là Đấng tự hiến chính
mình vì yêu chúng ta hơn. Amen.
Sơn
Tây, ngày 19 tháng 06 năm 2014
Xét duyệt của Đức Giám Mục
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)